CÁC LÝ THUYẾT TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU GIA ĐÌNH VÀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY

04
04
'18

CÁC LÝ THUYẾT TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU GIA ĐÌNH
VÀ VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY

Tác giả: Vũ Thị Phương

 

 Khi nghiên cứu thực nghiệm một vấn đề nào đó trong xã hội, việc tiếp cận lý thuyết giúp chúng ta nhiều điều: 1. Cung cấp các khái niệm mà ta dùng để phân tích; 2. Gợi ý những câu hỏi để hỏi vào hiện thực, hướng ta chú ý tới những loại sự kiện nào đó; 3. Gợi ra cách trả lời những câu hỏi bằng cách định hướng các giả thuyết và chỉ dẫn quan sát; 4. Giúp ta kiến giải các sự kiện có ý nghĩa, giúp ta nhìn rõ hơn, và sắp xếp cơ cấu quá trình tri giác của chúng ta.

Gia đình và văn hóa gia đình là một trong những đề tài được các nhà nghiên cứu khoa học xã hội trong nhiều chuyên ngành quan tâm. Tùy thuộc vào chuyên ngành và nền tảng tri thức sẵn có của mình, mỗi nhà nghiên cứu lại có cách tiếp cận riêng. Tuy nhiên, gia đình và văn hóa gia đình là những vấn đề phức tạp, cần phải dựa trên cách tiếp cận tổng hợp, tức kết hợp nhiều hướng tiếp cận khác nhau nhưng không loại trừ nhau.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ chọn lọc một số cách tiếp cận lý thuyết chính được sử dụng trong các nghiên cứu về gia đình và văn hóa gia đình trong xã hội hiện nay. Với mong muốn sẽ góp phần hữu ích cho các nhà nghiên cứu quan tâm đến bản chất của gia đình, văn hóa gia đình ở Việt Nam.

          Từ khóa: Lý thuyết nghiên cứu, gia đình, văn hóa…

  1. Cách tiếp cận thuyết cấu trúc chức năng

Đây là một trong những cách tiếp cận lý thuyết chủ đạo được dùng để lý giải gia đình hoạt động như thế nào, gia đình liên quan với xã hội bên ngoài và với các thành viên ra sao.

Các luận điểm gốc của thuyết chức năng cấu trúc đều nhấn mạnh tính cân bằng, ổn định và khả năng thích nghi của cấu trúc. Lý thuyết này cho rằng, một xã hội tồn tại, phát triển được là do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc; bất kỳ một sự thay đổi nào ở thành phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác. Theo nghĩa đó, gia đình được coi là một thành phần trong cấu trúc của xã hội, thực hiện những chức năng cơ bản của xã hội, đáp ứng nhu cầu của các thành viên gia đình và góp phần ổn định xã hội.

Khi nghiên cứu gia đình như một hiện tượng xã hội và theo cách tiếp cận cấu trúc chức năng, chúng ta sẽ có hai bình diện nghiên cứu: 1) Quan hệ giữa gia đình với xã hội; 2) Các mối quan hệ bên trong gia đình. Hai bình diện nghiên cứu này tương ứng với với hai hướng nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, nghiên cứu gia đình như một thiết chế xã hội. Người ta nghiên cứu xem gia đình tồn tại nhằm mục đích gì, thực hiện chức năng gì đối với xã hội, mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Hướng nghiên cứu này sẽ trả lời cho các câu hỏi: “Các chức năng của gia đình là gì?” (Câu hỏi này đề cập đến những đóng góp của gia đình vào việc duy trì xã hội. Nó cho rằng xã hội có những đòi hỏi tiên quyết về chức năng (hay những nhu cầu cơ bản) cần đáp ứng để xã hội có thể tồn tại và vận hành có hiệu quả. Gia đình được xem xét dưới góc độ nó đáp ứng những nhu cầu cơ bản này); “Quan hệ chức năng giữa gia đình và các bộ phận khác của xã hội là gì? (Câu hỏi này đề cập đến mối quan hệ giữa gia đình và xã hội, mối quan hệ và tác động lẫn nhau giữa gia đình và các thiết chế xã hội khác như Nhà nước, kinh tế, tôn giáo, giáo dục… Nghiên cứu sự tác động qua lại giữa gia đình và xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng của nó, quan hệ gia đình và các tập hợp xã hội khác như nhà trường, làng xóm, bạn bè, đồng nghiệp, các tổ chức chính trị, văn hóa…).

Thứ hai, nghiên cứu gia đình như một nhóm xã hội đặc thù. Người ta nghiên cứu mối quan hệ tác động qua lại giữa các cá nhân trong đời sống gia đình như quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ - con cái, những mối quan hệ tiền hôn nhân, những nhân tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn bạn đời, địa vị, vai trò của các thành viên gia đình, phân công lao động theo giới trong gia đình, mâu thuẫn, xung đột giữa các thành viên trong gia đình, những nguyên nhân tan rã của mối liên hệ hôn nhân và gia đình,…” [3]. Tính đặc thù của nhóm xã hội gia đình do được hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về tình cảm, trách nhiệm và quyền lợi.

Đối với thuyết cấu trúc chức năng, hai tác giả được coi là đại biểu chính là George Murdock và Talcott Parsons Goode.

George Murdock giải thích tính phổ biến của gia đình do gia đình thực hiện 4 chức năng cơ bản không thể thiếu được cho sự tiếp nối thành công của xã hội. Đó là các chức năng: tình dục, tái sinh sản, giáo dục và kinh tế. Ông cho rằng những chức năng này là hoàn toàn cần thiết cho cả cá nhân và xã hội. Và chỉ có gia đình mới có thể thực hiện thành công những chức năng này. Vì thế, gia đình là tất yếu và phổ biến – chúng ta không thể tồn tại mà không có gia đình. Nếu gia đình không thực hiện đầy đủ các chức năng của nó thì những mục tiêu rộng lớn của xã hội cũng sẽ không đạt được.

Parsons ủng hộ mô hình phân công lao động rõ ràng theo giới. Ông cho rằng, trong gia đình, người chồng có vai trò công cụ, là người đi làm kiếm sống, tạo ra thu nhập. Còn người vợ giữ vai trò biểu cảm, là người ở nhà chăm sóc con cái, lo việc nhà. Trong khi chăm sóc cho cả chồng và con, người phụ nữ thể hiện sự ấm áp, tình yêu, sự an ủi và làm dịu đi những căng thẳng, ức chế gây ra bởi thế giới bên ngoài. Theo nghĩa này, các vai trò công cụ và tình cảm của chồng và vợ bổ sung cho nhau. Mỗi một vai trò bảo đảm những yếu tố thiết yếu đối với những chức năng cơ bản và không thể giảm bớt của gia đình đã được nói đến ở trên. Từ đó, nó thúc đẩy sự cố kết gia đình.

Cách tiếp cận cấu trúc chức năng được thịnh hành trong những năm 50 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng có những hạn chế nhất định. Bởi nó được coi là quá lý tưởng hóa gia đình, coi gia đình là một đơn vị thống nhất về lợi ích, coi trẻ em là đối tượng tiếp nhận thụ động văn hóa và tri thức từ người lớn tuổi, đề cao vai trò của người đàn ông là chủ gia đình và đẩy người phụ nữ vào tình trạng bị phụ thuộc, hợp pháp hóa hình thức phân công lao động theo giới tính trong gia đình, có lợi cho việc duy trì quyền lợi của nam giới. Mặt khác, cách tiếp cận lý thuyết cấu trúc chức năng được coi là có tính chất bảo thủ vì nó không nhìn thấy hoặc không chấp nhận những mặt trái của cuộc sống gia đình như mâu thuẫn, xung đột, ly hôn; hay sự thay đổi vai trò của người phụ nữ, sự giải phóng người phụ nữ ra khỏi công việc gia đình. Nó cũng không lý giải được những mâu thuẫn về nhu cầu và lợi ích giữa những cá nhân, thành viên trong gia đình với nhau và mâu thuẫn, xung đột nhu cầu, lợi ích giữa gia đình với xã hội [7]. Ví dụ, xã hội Việt Nam đang thi hành luật và chính sách kế hoạch hóa gia đình nhằm giảm mức sinh và hạn chế số con, để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống và sức khỏe con người… Đó là những đòi hỏi mới về chức năng sinh đẻ của gia đình. Nhưng trong thực tế, nhiều bậc cha mẹ không muốn hạn chế số con do họ có nhu cầu và giá trị khác với xã hội. Các tiếp cận cấu trúc chức năng không thể lý giải được hiện tượng này.

Như vậy, về mặt phương pháp luận, cần lưu ý rằng quan điểm cấu trúc chức năng là chỉ của các nhà nghiên cứu, không phải của các thành viên gia đình bình thường. Nói cách khác, quan điểm này là của người ngoài cuộc, nên khá xa với cách nhìn của đối tượng nghiên cứu.

  1. Cách tiếp cận thuyết xung đột

Cách tiếp cận xung đột không coi gia đình là nhân tố đóng góp cho sự ổn định của xã hội mà là tấm gương phản chiếu sự bất bình đẳng về của cải và quyền lực của một xã hội rộng lớn hơn. Cách tiếp cận này coi xã hội về cơ bản không mang tính hợp tác, mà chia rẽ. Các cá nhân và nhóm xung đột với nhau, và các nhà nghiên cứu cố gắng tìm ra và nhận diện những lực lượng cạnh tranh, xung đột nhau này.

Trong xã hội hiện đại, khi con người có tự do về tình yêu và hôn nhân, mà hôn nhân thì dựa trên cơ sở về tình yêu, nhưng không vì thế mà xung đột gia đình mất đi. Những người theo cách tiếp cận này cho rằng tình yêu là một yếu tố quan trọng trong hôn nhân và gia đình, nhưng mâu thuẫn, xung đột và quyền lực cũng hết sức cơ bản. Mâu thuẫn trong các mối quan hệ tương tác giữa con người với nhau là một điều tự nhiên, khó tránh khỏi. Bởi gia đình bao gồm những cá nhân có nhân cách, lý tưởng, giá trị, sở thích và mục đích khác nhau. Mỗi người không phải bao giờ cũng hài hòa với mọi người khác trong gia đình. Các gia đình thường có bất đồng, từ nhỏ đến lớn, chỉ khác về tần số, mức độ, tính chất và cách giải quyết xung đột. Chính vì vậy, cách tiếp cận xung đột không tin xung đột là tồi tệ, mà coi nó là một bộ phận tự nhiên của đời sống gia đình. Từ đó, người ta tập trung nghiên cứu về nguồn gốc của xung đột gia đình, cách kiểm soát và giải quyết các xung đột gia đình. 

Theo cách tiếp cận xung đột, một yếu tố rất quan trọng đó là quyền lực. Theo B. Strong, quyền lực được thể hiện qua vị trí trong gia đình, tiền bạc mà các cá nhân giành được, cưỡng bức về thể xác và tinh thần. Thông thường trong gia đình cá nhân nào nắm quyền lực cao nhất sẽ đạt được mục đích của mình trong cuộc xung đột. Vì xung đột được coi là bình thường, giải pháp cho nó là ở giao tiếp, mặc cả và thương lượng [3].

Lý thuyết xung đột khắc phục được những hạn chế của thuyết chức năng, nhưng khi vận dụng nghiên cứu, chúng ta cần lưu ý những khó khăn
sau đây:

  • Lý thuyết xung đột dựa quá nhiều vào quan niệm về chính trị, nơi lợi ích riêng, thói vị kỷ và cạnh tranh là những yếu tố chủ đạo, nhưng trong gia đình, ngoài xung đột, con người ta còn có sự tự hi sinh và hợp tác. Gia đình không thể tồn tại nếu xung đột lấn át sự hi sinh và hợp tác;
  • Cách tiếp cận này cho rằng những khác biệt dẫn đến xung đột, nhưng thực ra khác biệt có thể được chấp nhận mà không nhất thiết phải dẫn đến xung đột;
  • Việc đo lường xung độ gia đình không dễ dàng, nhất là với người ngoài (nhà nghiên cứu) [3].
  1. Cách tiếp cận thuyết nữ quyền

Nữ quyền được hiểu một cách đơn giản là những tư tưởng, học thuyết, những hoạt động đấu tranh cho quyền chính đáng của phụ nữ chống lại chế độ phụ quyền. Thuyết nữ quyền bao gồm các lý thuyết xã hội khác nhau, giải thích nguyên nhân của việc phụ nữ bị áp bức trong xã hội, tìm ra các biện pháp để thay đổi quan hệ giới, tiến tới bình đẳng và công bằng trong gia đình và xã hội. Hay nói cách khác, đặc điểm đặc thù của các lý thuyết nữ quyền là sự nhấn mạnh đến vấn đề quyền lực, xung đột, và biến đổicủa hệ thống gia đình.

Năm 1965, Betty Friedan, một tác giả nữ quyền người Mỹ đã viết về “vấn đề không tên”, tức là sự cô lập và nhàm chán của nhiều phụ nữ Mỹ, những người chỉ làm nội trợ với chu kỳ không dứt là quanh đi quẩn lại chỉ chăm con và làm việc nhà. Tiếp nối bà, nhiều tác giả khác lên tiếng. Trong những năm 1970 và 1980, cách tiếp cận nữ quyền làm chủ hầu hết các cuộc tranh luận và nghiên cứu về gia đình ở Mỹ và Anh.

Đối với thuyết nữ quyền, gia đình không phải là một thiết chế có tính tất yếu về sinh học mà là một thiết chế xã hội, một hệ tư tưởng, một hệ thống mang tính thiết chế của các quan hệ xã hội và các ý nghĩa văn hóa. Vì vậy, theo cách tiếp cận này thì khái niệm phù hợp trong việc phân tích gia đình, những khác biệt và tương đồng giữa nam và nữ cần phải là khái niệm giới (gender) chứ không phải giới tính (sex). Hệ thống gia đình hiện tồn đã được tạo ra bởi con người, và nó được tạo ra theo cách thức đã mang lại rất nhiều lợi thế cho nam giới với cái giá làm giảm quyền của phụ nữ. Những người theo thuyết nữ quyền xem quyền lực của nam giới đối với phụ nữ như nguồn gốc của sự bất bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội. Họ lập luận rằng việc kiểm soát quyền lực cho phép nam giới tạo ra một diện rộng các vai trò của nam giới và thu hẹp đáng kể những lựa chọn dành cho phụ nữ. Kết quả là những địa vị có lợi nhất trong cấu trúc xã hội đã được giữ riêng cho nam giới. Việc phân chia vai trò được xem như điểm mấu chốt trong khung lý thuyết của phái nữ quyền. Họ cho rằng bất bình đẳng giới trong gia đình cần phải được giải thích dưới dạng sự phân công các vai trò giới mà đến lượt mình chỉ có thể hiểu được “bằng việc chúng ta đã nuôi dạy con cái như thế nào, bằng sự phân công lao động theo giới tính, bằng các định nghĩa văn hóa về cái gì là thích hợp đối với mỗi giới, và bằng các sức ép xã hội mà chúng ta đặt lên mỗi một trong hai giới” [3].

Cách tiếp cận nữ quyền nhấn mạnh nhiều chủ đề, nhưng có 3 chủ đề đặc biệt quan trọng: 1. Sự phân công lao động gia đình, tức là sự phân chia nhiệm vụ giữa các thành viên trong gia đình. 2. Quan hệ quyền lực không ngang nhau trong nhiều gia đình biểu hiện qua tình trạng bạo lực gia đình. 3. Hoạt động chăm sóc các thành viên trong gia đình mà hầu hết là dồn lên vai người phụ nữ.

Có thể nói, thuyết nữ quyền đã có những cống hiến to lớn làm thay đổi nhận thức lý luận, phương pháp nghiên cứu và hình thành những chủ đề nghiên cứu mới trong gia đình. Nghiên cứu về gia đình theo cách tiếp cận này, chúng ta cần lưu ý những hạn chế của thuyết nữ quyền như sau: Tính bao quát chưa cao; một số mâu thuẫn trong lập luận; một số giải pháp có tính cực đoan trong việc giải quyết bất bình đẳng giới; chưa quan tâm đầy đủ đến những biến đổi gia đình dưới tác động của biến đổi xã hội.

  1. Cách tiếp cận phát triển (đường đời)

Chúng ta biết rằng, các gia đình đều có đường đời (gồm các giai đoạn: thành lập, mở rộng, ly hôn (đối với một số người), chia tách và tan rã), nhưng không phải mọi gia đình đều theo cùng một chuỗi và dãy các sự kiện.

Paul Glich và Evelyn Duvall là những người đầu tiên đề xuất cách tiếp cận phát triển ở Mỹ. Các lý thuyết cụ thể thuộc hướng tiếp cận này vừa mang tính vĩ mô, vừa mang tính vi mô. Gia đình được coi như một nhóm xã hội tồn tại theo thời gian, thể hiện trong đó một quá trình lịch sử tác động qua lại trong nội bộ cũng như tác động qua lại với xã hội. Cách tiếp cận phát triển là đưa ra một khung phân tích lịch đại hay dài hạn để nghiên cứu gia đình. Những nghiên cứu này không chỉ phỏng vấn các thành viên trong gia đình một lần rồi thôi, mà là những nghiên cứu lặp lại sau một thời khoảng nào đó (nghiên cứu lịch đại) đã theo dõi cá nhân và các gia đình theo thời gian. Nói cách khác, cách tiếp cận này không coi gia đình như một cấu trúc tĩnh mà gia đình là một cấu trúc luôn phát triển và biến đổi theo thời gian [3].

Tiếp cận phát triển khảo sát sự diễn biến, phát triển và thay đổi của các gia đình trong bối cảnh kinh tế xã hội cụ thể, và xem xét động thái giữa các đoạn đời khác nhau của các thành viên. Đường đời một cá nhân có khi không phù hợp với đường đời các thành viên khác trong gia đình. Cách tiếp cận này đặc biệt bổ ích trong việc nghiên cứu các hiện tượng, quan hệ giữa các thế hệ trong bối cảnh các thời kỳ lịch sử khác nhau, đồng thời giúp cho việc phân tích các giai đoạn của vòng đời gia đình gắn với những biến chuyển của lịch sử [3]. Như vậy, cách tiếp cận này cho thấy hành vi của cá nhân và gia đình bị ảnh hưởng bởi những biến đổi lịch sử ở cấp độ xã hội do các yếu tố bên ngoài mang lại.

  1. Cách tiếp cận thuyết vùng văn hóa

Với đại diện là F. Boas (1858-1942) - một nhà nhân chủng học có ảnh hưởng lớn đến các khuynh hướng nghiên cứu văn hoá Mỹ vào nửa đầu thế kỷ XX. Theo F. Boas, một mặt ông thừa nhận tính thống nhất và quy luật chung của phát triển văn hoá nhân loại; nhưng mặt khác, cũng khẳng định một cách hoàn toàn có lý rằng, văn hoá của mỗi dân tộc được hình thành trong quá trình lịch sử gắn liền với môi trường xã hội nhất định và trong điều kiện địa lý cụ thể.

Hiểu một cách cụ thể hơn, vùng văn hóa được hiểu là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt hoàn cảnh tự nhiên, dân cư ở đó lâu đời đã có những mối quan hệ nguồn gốc lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội; giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân. Vùng văn hóa được hình thành và tồn tại là kết quả tác động của nhiều nhân tố tự nhiên, xã hội và lịch sử trong đó quan hệ giao lưu và ảnh hưởng qua lại có vai trò quan trọng hàng đầu. Trong vùng văn hóa có một hoặc nhiều tộc người cùng sinh sống, giữa các tộc người luôn có sự giao tiếp lâu dài về văn hóa, dẫn tới sự biến đổi một số đặc điểm, thậm chí là tổng thể văn hóa của các cộng đồng. Thực tế lịch sử cho thấy, bất kỳ một cộng đồng tộc người nào cũng có mối quan hệ với các tộc người xung quanh. Sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa là nhân tố kích thích và hình thành, nảy nở các hiện tượng văn hóa mới. Một cồng đồng phát triển hay tiêu vong văn hóa tùy thuộc vào yếu tố nội sinh – truyền thống của chính cộng đồng ấy trong giao tiếp. Khi yếu tố nội sinh đủ mạnh, nó tự lựa chọn và bản địa hóa những yếu tố văn hóa mới tiếp thu được từ cộng đồng khác làm phong phú thêm văn hóa của cộng đồng mình [5].

Rõ ràng là, giữa vùng văn hoá - lịch sử với các loại cộng đồng kể trên có mối quan hệ gắn bó, bởi lẽ, trong một không gian địa lý nhất định (miền, vùng, tiểu vùng) có thể sinh sống những nhóm cư dân thuộc các chủng tộc nhất định, nói các ngôn ngữ xác định, thuộc về các dân tộc hay theo các tôn giáo nào đó. Tuy vậy, phạm vi giữa vùng văn hoá - lịch sử với phạm vi các cộng đồng kể trên không nhất thiết trùng khớp nhau. Thường là trong một vùng văn hoá - lịch sử có thể là nơi sinh sống của các nhóm cư dân thuộc các loại hình nhân chủng khác nhau, nói các ngôn ngữ khác nhau, tự nhận mình thuộc các tộc người khác nhau, thậm chí theo những tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Điều quan trọng nhất không phải là sự trùng khớp kể trên, mà là mối quan hệ ảnh hưởng qua lại giữa họ trong quá trình lịch sử như thế nào, để giữa họ hình thành nên những đặc trưng chung về văn hoá và lối sống.

Vận dụng cách tiếp cận này đặc biệt hữu ích cho những nghiên cứu về văn hóa gia đình. Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã cho thấy những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá gia đình Việt Nam vẫn được bảo vệ, gìn giữ và đang truyền tiếp trong các thế hệ gia đình tại các vùng miền, thể hiện ở sự đùm bọc, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên các thế hệ gia đình, trong tình thương yêu của huyết thống dòng họ, với sự gắn bó linh thiêng giữa những người đang sống và những người đã khuất. Từ đó, cho thấy những bản sắc văn hóa của từng vùng miền qua việc đi sâu tìm hiểu nếp sống, gia phong của gia đình, khu biệt các tiêu chí để phân định và làm nổi bật nét riêng đặc sắc của văn hóa gia đình giữa các vùng miền.

  1. Cách tiếp cận thuyết giao lưu – tiếp biến văn hóa

Lý thuyết này dùng để diễn giải quá trình thay đổi hoặc biến đổi một số loại hình văn hóa của cả hai nền văn hóa diễn ra do sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai nền văn hóa khác nhau.

Sự giao lưu, tiếp biến văn hóa là quá trình một nền văn hóa thích nghi, ảnh hưởng từ một nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy. Vì thế, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa, đó là sự trao đổi của những đặc tính văn hóa nảy sinh khi các cộng đồng tiếp xúc trực diện và liên tục.

Tiếp biến văn hóa còn có thể được cấu trúc rõ ràng về mặt xã hội như trong trường hợp xâm lược hay trong các tình trạng bất bình đẳng về mặt xã hội hoặc chính trị khác định hướng dòng chảy của các yếu tố văn hóa. Tiếp biến văn hóa bao gồm các quá trình khác nhau, gồm khuyếch tán, thích nghi mang tính ứng phó, các loại hình thái tổ chức xã hội và văn hóa khác nhau sau tiếp xúc và giải văn hóa hay phân giải văn hóa. Một loạt các điều chỉnh phát sinh, gồm việc có được sự tự trị đáng kể văn hóa hay điển hình hơn, là sự đồng hóa của nhóm tiếp xúc yếu hơn bởi nhóm tiếp xúc mạnh hơn và sự hỗn dung văn hóa, nhờ đó hai văn hóa có thể trao đổi các yếu tố để sau đó tạo ra một nền văn hóa riêng [6].

Như vậy, chúng ta có thể hiểu giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội, của văn hóa, gắn bó với tiến hóa xã hội và cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa. Giao lưu và tiếp biến văn hóa vừa là kết quả của sự trao đổi văn hóa, vừa là chính bản thân của sự trao đổi ấy, do đó sự giao lưu tiếp biến văn hóa có một tầm quan trọng trong lịch sử nhân loại. Nói cách khác, giao lưu, tiếp biến văn hóa là quy luật tồn tại và phát triển của mọi nền văn hóa và mọi xã hội từ xưa đến nay.

Lý thuyết này được vận dụng nhiều trong nghiên cứu về văn hóa gia đình. Cụ thể, cách tiếp cận thuyết này sẽ lý giải sự biến đổi các nghi lễ trong gia đình. Sự biến đổi của các nghi lễ gia đình còn được xem xét dưới tác động của sự biến đổi môi trường tự nhiên – xã hội và sự biến đổi nội sinh. Như chúng ta đã biết, văn hóa không phải là cái bất biến mà nó luôn vận động, biến đổi để duy trì và phát triển yếu tố truyền thống. Đặc biệt là trong thời điểm hiện nay, dưới tác động của quá trình phát triển, toàn cầu hóa và hội nhập thì sự biến đổi của gia đình và văn hóa gia đình đang diễn ra ngày càng rộng lớn về quy mô và nhanh, mạnh về cường độ.

 

Lời kết

Những cách tiếp cận trên cho thấy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề gia đình và văn hóa gia đình tùy theo mục đích, đối tượng nghiên cứu của từng ngành khoa học, của các quan điểm nhận thức. Mỗi cách tiếp cận lý thuyết thường chỉ giải thích được một số khía cạnh nhất định của đời sống gia đình. Sẽ không có một lý thuyết nào có thể lý giải cho toàn bộ các vấn đề của gia đình, hay nói cách khác, một số khía cạnh của đời sống gia đình chỉ thích hợp với việc vận dụng lý thuyết này mà không thích hợp với việc vận dụng lý thuyết kia.

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi nghiên cứu về gia đình, văn hóa gia đình thì việc chọn một cách tiếp cận lý thuyết sẽ ảnh hưởng đến cách diễn giải dữ liệu, cũng như các kết luận khác nhau dù cùng một chất liệu. Có trường hợp khi lựa chọn kết hợp một vài cách tiếp cận sẽ đưa ra những lý giải sâu sắc và đầy đủ, bổ sung cho cho nhau. Hoặc khi hai cách tiếp cận có thể trái ngược nhau thì các nhà nghiên cứu hoàn toàn có thể kiểm nghiệm cách tiếp cận nào đúng bằng cách xét xem các sự kiện xã hội hỗ trợ cách tiếp cận nào. Từ đó, các nhà nghiên cứu sẽ có những quyết định lựa chọn cách tiếp cận các lý thuyết phù hợp với mục đích, đối tượng cũng như quan điểm nghiên cứu của chính mình.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Cheal, D (1991), Family and the State of Theory, Hertfordshire: Harvester Wheatsheaf.
  2. Goode, William J (1992), Housewives and Employed Wives: Demographic and Attitudinal Change, 1972-1986. Journal of Marriage and the Family, vol. 54, pp. 559-569.
  3. Mai Huy Bích (2011), Xã hội học gia đình, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
  4.  Hồ Ngọc Đại (1990), “Tam giác gia đình”, Tạp chí Xã hội học, số 3. Tr. 35.
  5.  Nguyễn Thị Song Hà (2011), Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Mường ở Hòa Bình, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
  6. Từ điển Nhân học, bản dịch tiếng Việt, tập 1 – 2, lưu tại Thư viện Dân tộc học, Hà Nội, ký hiệu TĐ 86, TĐ 89.
  7.  Lê Ngọc Văn, 2011, Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phát triển số 17, tháng 3/2016

 

Từ khóa: